Ta bèn trình Bộ Công xin chiếu lệ tu bổ, được Bộ tâu chuẩn cấp cho số bạc 150$00 nhưng giao ta nhận lãnh mà tu bổ lấy. Của quan là long trọng, tuy ít vẫn quý; nhưng nhà thờ hư hỏng quá nhiều, số tiền ấy không thể làm nổi, cho nên ta phải tự xuất của nhà ra một số lớn, và chọn được ngày tốt (tứ tân) năm ngoái (Tân hợi, 1911)làm lễ thượng lương; tháng Giêng năm nay triệt hạ, đem tới trước và xây ngang lại tiền Nam, được hưởng tự nhiên ( Càn Tốn Hợi Tỵ ), khởi công xây cất từ đường và thành cửa, lan can đều hoàn bị cả, không đầy ba tháng đã được lạc thành, nhà cửa trang nghiêm, thờ lại như cũ.
Trước mặt vườn này ta mua thêm một khoảnh đất hơn hai sào để cho rộng rãi an dưỡng, ngoài thời rào dậu kín đáo, trong thời trồng đủ các thứ hoa quả; ngày sau thành liêu, con cháu người nào túng thiếu cho được hưởng hoa lợi trong ấy, nhưng không được đốn chặt nhánh lá mà làm hại cây cối.
Còn sở vườn Xuân Hòa, tuy có phòng thứ ba ở giữ, nhưng con cháu người nào không có chỗ ở, cũng được chia nhau mà ở, để công truyền dài lâu.
Trên đây ta kể lại sự tích nhà thờ trải qua mấy đời rất rõ ràng, mong sao con cháu sau này noi gương sáng giữ gìn nề nếp được đời đời dài lâu, ấy là nguyện vọng tha thiết của ta.
Mùa Xuân năm Nhâm Tý ( 1912)
(1) tức Ngài Tôn Thất Trinh (ông Bác) và Tôn Thất Thoại (ông Nội)
(2) tức Ngài Tôn Thất Hội
(3) tức ngài Tôn thất Hiệp
(4) tức ông Tôn Thất Đinh (đệ lục thế )